Biện pháp tròng trừ sâu gây hại cây vú sữa

Giá bán: Liên hệ

    Hiện nay, vú sữa là loại cây ăn trái được trồng khá phổ biến, ngoài phẩm chất ngon, được người tiêu dùng ưa thích, vú sữa còn là loại trái cây có khả năng xuất khẩu. Tuy nhiên, vú sữa thường bị một số loài sâu bệnh hại tấn công, làm thiệt hại năng suất và giảm giá trị thương phẩm của trái đáng kể.

    - +

    Hiện nay, vú sữa là loại cây ăn trái được trồng khá phổ biến, ngoài phẩm chất ngon, được người tiêu dùng ưa thích, vú sữa còn là loại trái cây có khả năng xuất khẩu. Tuy nhiên, vú sữa thường bị một số loài sâu bệnh hại tấn công, làm thiệt hại năng suất và giảm giá trị thương phẩm của trái đáng kể.

    Ý kiến chia sẻ kinh nghiệm phòng trừ sâu bệnh hại trên cây Vú Sữa từ bà con nông dân:

    “Nhà tôi trồng vú sữa được 3 năm rồi, nhưng dạo này thấy cây còi cọc, lá nhỏ lại, thưa dần, lá có màu xanh xám, có khi lá rụng đến trơ cành, ra quả thì bị héo xanh, có cảm giác như cây sắp chết. Cây như vậy là bị bệnh gì, nhìn thì giống như bị thiếu nước nhưng mà không phải. Ai biết cây bị bệnh gì và cách trị như thế nào giúp tôi với.” – Anh Cầu chia sẻ

    “Theo như mô tả của anh thì em nghĩ vú sữa nhà anh bị bệnh thối rễ rồi. Bệnh này khá phức tạp và nguy hiểm, có nhiều tác nhân khác nhau, nhưng chủ yếu là phát sinh từ đất. Cách khắc phục hơi dài dòng. Anh có thể lên internet để tham khảo thêm về biện pháp phòng bệnh thối rễ cho cây Vú Sữa.” – Anh Định chia sẻ

    Biện pháp phòng trừ sâu bệnh hại cây Vú Sữa được chia sẻ từ 2lúa: “Phòng Trừ Sâu, Bệnh Hại Trên Cây Vú Sữa”

    I. Các loại sâu hại chính

    1. Sâu đục trái (Alophia sp.- pyralidae):

    Sâu gây hại từ khi trái còn nhỏ đến chín. Thành trùng hoạt động vào ban đêm, con cái đẻ trứng lên vỏ trái, sâu cắn phá vỏ trái, đùn phân ra ngoài làm cho trái mất đẹp, giá bán không cao.

    Phòng trị: Sau thu hoạch, tỉa bỏ cành sâu bệnh, cành gãy…giúp vườn cây thông thoáng. Thu gom và tiêu hủy trái bị hại để sâu non không hóa nhộng và gây hại ở lứa tiếp theo. Phun thuốc khi thấy có sâu non xuất hiện bằng các loại thuốc như: Basudin 50ND, Sumi Alpha 5EC, Karate 2,5EC, Cypermap 10EC… liều lượng theo hướng dẫn trên bao bì.

    2. Sâu ăn bông (Eutalodes anithivora – Gelechiidae):

    Gây hại từ khi bông bắt đầu nhú ra đến khi hoa trỗ nhụy, sâu non đục vào bên trong làm bông bị hư.

    Phòng trị: khi phát hiện có sâu hại, phun các loại thuốc có tác dụng lưu dẫn như: Cyber Alpha 50ND, liều lượng theo hướng dẫn trên chai thuốc.

    3. Sâu đục cành (Pachyteria equestris – Coleoptera):

    Gây hại quanh năm. Con trưởng thành đẻ trứng lên đọt non, sâu non nở ra ăn lòn vào trong cắn phá cành, làm chết cành.

    Phòng trị: Thường xuyên thăm vườn, nếu thấy có mọt đổ từ các cành thì dùng que xoi vào lỗ đục và bắt bằng tay hoặc bơm thuốc trừ sâu có tính lưu dẫnvào các lỗ đục, sau đó trám lỗ đục lại bằng đất sét hoặc sáp.

    4. Rệp sáp (Pseudococcus sp.):

    Có nhiều loài rệp sáp gây hại trên vú sữa. Rệp chích hút lên lá, lên trái…. rệp tấn công từ khi trái còn nhỏ đến khi thu hoạch làm cho trái không phát triển. Ngoài ra, rệp tiết ra mật ngọt, tạo điều kiện cho nấm bồ hóng phát triển, làm mất phẩm chất trái.

    Phòng trị: tỉa bỏ những lá, trái bị nhiễm nặng, dùng máy bơm phun nước lên những chỗ có rệp sáp để rửa trôi rệp. Phun thuốc khi mật số rệp cao. Có thể bổ sung dầu khoáng DC- Tronplus 0.5% để tăng hiệu lực của thuốc.

    II. Các loại bệnh hại chính

    1. Bệnh thối trái (Do nấm Colletotrichum sp.):

    Nấm bệnh tấn công trái từ khi trái còn non đến khi thu hoạch. Ban đầu trên trái có những đốm nhỏ hình tròn màu nâu hoặc nâu đen, sau đó vết bệnh lan rộng ra và các vết bệnh nối tiếp nhau bao phủ cả trái. Trái bệnh thường bị chai sượng và rụng.

    Ngoài ra, nấm Lasiodiplodia theobromae cũng làm cho trái bị thối khi thu hoạch, vận chuyển và tồn trữ. Với vết bệnh ban đầu nơi gần cuống trái do thu hoạch không chừa cuống hoặc vỏ trái bị trầy xướt, sau đó vết bệnh lan dần làm hư thối cả trái.

    Phòng trị: Vệ sinh vườn, tỉa bỏ và thu gom những trái bị bệnh lại để tiêu hủy. Không nên trồng quá dày, tỉa bỏ cành vô hiệu để giúp vườn thông thoáng, hạn chế nấm bệnh phát triển.

    Khi thu hoạch tránh gây bầm giập, trầy xướt trái, không làm rụng cuống trái để giúp vườn thông thoáng, hạn chế sự xâm nhập của nấm bệnh. Cần theo dõi thường xuyên nếu thấy bệnh phát triển nhiều thì phun các loại thuốc như Antracol 70WP, Benlate 50WP, Manzate 80WP, Daconil 75WP, Carben 50SC, Thio – M 70WP…Ngoài ra, xử lý trái bằng nước nóng ở 520 C trong 10 phút cũng ngừa được bệnh thối trái.

    2. Bệnh bồ hóng (Do nấm Capnodium sp.):

    Nấm bệnh tạo thành từng mảng đen như bồ hóng bám trên mặt lá, trên trái làm giảm quang hợp của lá, làm ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây. Bồ hóng bám trên trái làm mã trái xấu bán không được giá. Nấm bệnh phát triển trên các vườn vú sữa có rầy mềm, rệp sáp, rệp dính…vì chất thải của rầy, rệp giúp nấm phát triển. Bệnh thường phát triển mạnh trong mùa nắng.

    Phòng trị: Không trồng quá dày. Tỉa cành tạo tán hợp lý để vườn cây thông thoáng. Mùa nắng, chú ý phòng trị rệp sáp, rầy mềm, rệp dính, bằng các loại thuốc như Supracide 40EC, Trebon 10EC, Actara…Khi thấy có nấm bồ hóng: phun các loại thuốc có gốc đồng như Coc 85, Copper Zine, Copper B…

    III. Quản lý dịch hại tổng hợp trên vườn cây vú sữa

    1. Mục tiêu:

    – Nhằm hạn chế hoặc ngăn chặn sự phát sinh – phát triển dịch hại và sự gây hại của chúng đến cây trồng

    – Nhằm giảm thiểu việc sử dụng thuốc hoá BVTV trong vụ mùa

    – Tạo sự an toàn về môi sinh và cân bằng sinh thái

    – Nâng cao an toàn chất lượng sản phẩm và an toàn trong sản xuất

    – Nâng cao hiệu quả kinh tế trong quá trình sản xuất nông nghiệp

    2. Quản lý dịch hại tổng hợp sau khi thu hoạch: (từ tháng 1 đến tháng 3 dương lịch)

    – Thu gom trái rơi rụng và những trái bị hư hại bởi sâu đục trái trên cây cho vào túi nylon cột chặt và đào hố chôn hoặc đốt tiêu hủy. Cắt tỉa cành sau thu hoạch, tiêu hủy tàn dư thực vật. Tưới bằng vòi phun áp lực cao, rửa trôi dịch hại trên cây.

    – Sau thu hoạch làm đất (xới nhẹ), bón vôi, sử dụng bánh neem (sản phẩm của cây xoan) có trộn phân hữu cơ (2 – 3 kg/gốc) bón vào gốc (1/3 đường kính tán cây tính từ gốc) hoặc có thể xử lý Basudin 10 H (10 g/gốc) quanh gốc và tưới ẩm. Quét vôi thân cây.

    – Phân bón đúng liều lượng tăng cường phân hữu cơ cho cây (có thể trộn sản phẩm Trichoderma với phân hữu cơ, bón 2 lần/năm vào mùa mưa)

    – Xử lý ra đọt non đồng loạt, sử dụng thuốc BVTV có nguồn gốc vi khuẩn Bacillus thuringiensis kết hợp với thuốc trừ sâu có nguồn gốc thảo mộc như cây xoan, cúc tổng hợp trị liệu các loài sâu hại tấn công giai đoạn lá non và hoa.

    3. Quản lý dịch hại tổng hợp giai đoạn trái non:

    – Tưới bằng vòi phun áp lực cao, rửa trôi dịch hại tấn công trái và các bộ phận khác.

    – Thăm vườn thường xuyên phát hiện, thu gom và tiêu huỷ những trái có bị hại.

    – Biện pháp bao trái: Nhằm ngăn chặn sự tấn công dịch hại, tránh sự va chạm xây xát và ngoài ra không thấy xuất hiện triệu chứng da ếch. Trái thu hoạch không có tì vết, màu sắc bóng đẹp và chất lượng cao. Sử dụng túi bao khi trái có đường kính khoảng 3-4 cm (khoảng 4 – 4.5 tháng sau khi ra hoa). 1-2 ngày trước khi bao trái xử lý bằng thuốc BVTV gốc cúc (Pyrethroids) hoặc gốc lân tổng hợp có thể kết hợp với thuốc trừ nấm bệnh như Ridomyl gold, Benomyl… Sau đó, nhà vườn bao từng trái, cho trái vào túi bao (không có lá, không bao những trái đã bị sâu hại tấn công hoặc có vết sẹo hay di dạng) và gút lại bằng nút gút cao su trên đầu túi bao.

    Chú ý: Để quan sát theo dõi sinh trưởng trái, nên bao đồng loạt dạng kích thước trái, đánh dấu túi bao bằng màu sắc khác nhau, ghi lại thời gian bao trái, thời gian đậu trái, để tiện cho quản lý và thu hoạch. Đến thời điểm thu hoạch, cắt trái xuống bằng dụng cụ thu hoạch, lột túi bao, rửa sạch, phơi 2 – 3 nắng, túi bao có thể sử dụng lại một lần cho vụ sau.

    – Biện pháp sử dụng thuốc BVTV: Do vú sữa là cây đa niên, tán rộng, có số lượng trái trên cây khá lớn, khó mà bao hết trái trên cây. Cần có biện pháp quản lý dịch hại bằng thuốc BVTV để ngăn chặn sự tấn công của sâu đục trái. Nên thăm vườn thường xuyên, quan sát triệu chứng gây hại và xử lý kịp thời. Kết hợp thuốc vi khuẩn B. thuringiensis với các thuốc có nguồn gốc thảo mộc như cây xoan (neem), hoặc gốc cúc tổng hợp hoặc gốc lân tổng hợp phun khi trái có đường kính 1,5- 2 cm và tỷ lệ trái bị hại (nhiễm) là 1 %. Nếu vườn có sự hiện diện rệp sáp sử dụng thuốc BVTV gốc cúc (Pyrethroids) hoặc gốc lân tổng hợp kết hợp với dung dịch nước rửa chén Mỹ Hảo (5-7ml/10 lít nước). Có thể kết hợp với thuốc trừ nấm bệnh như Ridomyl gold, Benomyl…trong trị liệu bệnh hại trên trái.

    4. Phòng trừ dựa vào tập tính của ruồi đục trái:

    – Sử dụng Methyl eugenol làm bẫy (giết ruồi đực): dùng hộp nhựa có kích cở: 10 x 20 cm, cắt 2 lổ cánh cửa bên hộp, có giữ lại mái (hạn chế mưa tạt vào). Hộp nhựa có thể sơn màu vàng. Bên trong nắp hộp có dây treo, gard y tế (bông gòn) tẩm thuốc (1 ml Vizubon), gắn vào dây treo ở bên trong nắp hộp. Treo hộp nhựa ở chiều cao 1,5 – 2m, dưới tán cây thoáng mát, tránh ánh nắng chiếu thẳng vào làm phân hủy nhanh chất dẫn dụ, đặt 20 bẫy/ha, treo theo những điểm quanh vành đai của vườn, tránh cho sự tấn công của kiến vào bẫy (dùng mở bò bôi trơn dây treo). Thời gian đặt bẫy và thay bẫy: 1,5 – 2 tháng trước thu hoạch, trái sắp chín (nếu thu hoạch tháng 11,12 treo bẫy tháng 9, 10 hoặc thu hoạch tháng 3 treo bẫy tháng 1). Từ 1,5 đến 2 tuần thay bẫy một lần, bằng cách bơm thuốc mới vào gard y tế hay bông gòn trong hộp nhựa.

    – Phun SOFRI protein để diệt ruồi đục trái (giết con cái): Pha 1 lít nước với 50 ml của SOFRI protein và 3 ml Regent 5 SC. Phun hỗn hợp đã pha thành điểm 50 ml/cây, vào lúc 8 – 10 giờ sáng. Phun khi 90 ngày sau khi đậu trái. Phun định kỳ 7 – 10 ngày/lần.

    – Thiên địch sâu đục trái: Một số kết quả nghiên cứu cho thấy Kiến Hôi Dolichodorus thoracius có khả năng khống chế mật số của sâu đục trái Alophia sp. một cách hữu hiệu.

    IV. Một số lưu ý khi sử dụng thuốc trừ sâu bệnh

    1. Cách sử dụng thuốc trừ sâu đúng đắn:

    – Xác định những giai đoạn mẫn cảm trong chu kỳ sống của sâu hại và áp dụng trực tiếp thuốc trừ sâu vào giai đoạn đó.

    – Thuốc trừ sâu được phun trừ dịch hại dựa trên cơ sở điều tra và khảo sát sâu hại trên vườn.

    – Các loại thuốc trừ sâu được phép sử dụng ở nhiều hoạt chất khác nhau, để làm tránh hoặc làm chậm tính kháng của sâu hại.

    – Sử dụng vòi phun mịn để phun thuốc trừ sâu.

    – Sử dụng thuốc trừ sâu có hiệu quả nhất ở giai đoạn quyết định của cây trồng và khi mật số sâu hại đạt ở mức độ cao.

    2. Cách sử dụng thuốc trừ nấm bệnh đúng đắn:

    – Sử dụng thuốc trừ nấm bệnh cần chú ý vào giai đoạn cây trồng dễ mẫn cảm bệnh và điều kiện môi trường thích hợp cho sự phát triển bệnh này (vườn dầy, ẩm độ cao).

    – Thuốc trừ nấm tiếp xúc được sử dụng khi giai đoạn của hoa hoặc lá ít mẫn cảm với nấm bệnh (trước khi nấm bệnh xâm nhiễm). Sau khi cây đã bị nhiễm, thuốc lưu dẫn cần sử dụng liên tục định kỳ để trị liệu bệnh

    – Thuốc trừ nấm tiếp xúc và lưu dẫn cần sử dụng xen kẽ tránh sự kháng thuốc của nấm bệnh.

    Thuốc trừ nấm sử dụng trên vườn cần dựa trên vụ mùa trước và điều kiện thời tiết. Điều này quan trọng hơn là phun định kỳ.

    Biện pháp phòng trừ bệnh thối rễ trên cây vú sữa được chia sẻ từ Báo Ấp Bắc: “Bệnh thối rễ, khô cành vú sữa và biện pháp quản lý tổng hợp”

    Bệnh thối rễ

    Bệnh thối rễ là một trong những đối tượng dịch hại nguy hiểm và gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế cho vùng trồng vú sữa tập trung ở tỉnh Tiền Giang. Bệnh thường xuất hiện và gây hại nặng trên những vườn vú sữa già cỗi, kể cả đối với những vườn trong giai đoạn kiến thiết cơ bản làm sụt giảm đáng kể năng suất và thậm chí gây chết cây.

    Triệu chứng: Triệu chứng khá phổ biến và điển hình của bệnh thối rễ trên cây vú sữa là cây còi cọc, kích thước lá bị thu nhỏ lại hay còn gọi “lá me”, tán lá thưa, có màu xanh xám, đôi khi lá trên một số cành bị rụng dẫn đến hiện tượng cây bị trơ cành và trái dễ bị héo xanh. Hệ thống rễ tơ (rễ mền) hay kể cả rễ thứ cấp đều bị thối nhũn, sau đó khô và hóa nâu. Ngoài ra, bệnh còn tấn công ở vị trí cổ rễ hay một số vị trí cục bộ trên rễ chính (nằm gần mặt đất) từ đó làm cho toàn bộ hệ thống rễ bị thối khô và hóa nâu, nếu phát hiện muộn thì sẽ rất khó phòng trị.

    Tác nhân: Thối rễ do nhiều tác nhân gây ra như: Nấm Fusarium solani, Fusarium oxysporium và Pythium helicoides; nứt khô cành do nấm Botryospaeriarhodia.

    Một số yếu tố ảnh hưởng đến sự phát sinh, phát triển của bệnh: Tuổi vườn khá cao; bón phân không cân đối giữa các thành phần N, P và K. Đặc biệt vẫn còn sử dụng biện pháp bơm lùa và bón nhiều phân đạm để kích thích ra hoa sớm vụ; sử dụng quá ít phân hữu cơ; đất chua và bón quá ít vôi; nông dân không biết nguyên nhân gây bệnh và biện pháp quản lý thiếu đồng bộ; bệnh phát triển rất nhanh, khó phát hiện và do đó các biện pháp xử lý bệnh đều không đạt hiệu quả như mong muốn. Ngoài ra, thiết kế vườn chưa đúng kỹ thuật, ngập úng, thoát nước kém trong mùa mưa lũ và bồi bùn lên mặt liếp quá dày… cũng là những yếu tố góp phần làm cho bệnh trở nên trầm trọng.

    Bệnh thối rễ, khô cành cây vú sữa do nhiều tác nhân khác nhau, những tác nhân này đều có nguồn gốc phát sinh từ đất, do đó đòi hỏi phải áp dụng nhiều biện pháp quản lý tổng hợp thì mới đạt được hiệu quả. Ngoài ra, việc kiểm tra vườn thường xuyên để có thể phát hiện sớm bệnh, từ đó có biện pháp quản lý bệnh kịp thời và hiệu quả.

    Quy trình quản lý tổng hợp bệnh thối rễ, khô cành

    1. Giai đoạn sau thu hoạch

    – Tiến hành vệ sinh vườn: Thu gom lá khô trên mặt liếp, trái bị nhiễm sâu bệnh, cắt tỉa cành bị sâu bệnh, cành vượt bên trong tán, cành ốm yếu.

    – Tỉa cành, trẻ hóa những vườn cây vú sữa già cỗi, bị nhiễm bệnh thối rễ, giúp cây hồi phục sinh trưởng nhanh và chất lượng trái được cải thiện. Nên tỉa cành để cây vú sữa phân bố cành đều theo các hướng và khống chế chiều cao không quá 4-4,5m. Đối với những vườn vú sữa già cỗi, cây bị nhiễm bệnh thối rễ thì tùy thuộc vào tuổi cây, mức độ nhiễm bệnh có thể tỉa từ 45-60% tán cây hoặc thấp hơn tỷ lệ này nhằm giúp sự cân bằng giữa tán cây và bộ rễ bị thối trong đất cũng như gia tăng chất lượng trái. Lưu ý, nên khử trùng vết cắt bằng thuốc trừ nấm có gốc đồng hoặc sơn công nghiệp để ngăn ngừa bệnh xâm nhiễm qua vết thương.

    – Bón vôi cho toàn bộ vườn với liều lượng từ 5-10kg/ cây trưởng thành.

    – Xử lý thuốc trừ nấm gây bệnh thối rễ: có 2 trường hợp xảy ra:

    * Trường hợp cây thối hệ thống rễ thứ cấp (rễ tơ, rễ mền): Khi phát hiện hệ thống rễ bị thối, tiến hành xử lý thuốc bằng cách xới nhẹ đất xung quanh tán cây, sau đó tưới một trong các loại thuốc trừ nấm có hoạt chất như: Fosetyl-aluminium, Mancozeb + Metalaxyl, Cuprous oxide, Benomyl theo liều lượng khuyến cáo, số lần tưới thuốc từ 3-5 lần/năm tùy vào tình hình diễn biến bệnh trên vườn. Nên tiến hành xử lý thuốc khi cây đang thu hoạch còn 10-20% số trái trên cây. Tưới đều dung dịch thuốc xung quanh tán cây, sau đó tưới nước liên tục 2-3 ngày để giúp thuốc hoà tan và thấm đều vào trong đất.

    * Trường hợp cây thối rễ chính, cổ rễ: Trong trường hợp cây bị thối ngay vị trí cổ rễ, rễ chính nằm gần mặt đất thì phải cào đất ra cho lộ rõ bộ phận rễ bị bệnh, cạo sạch vết bệnh và sử dụng cùng các loại thuốc nêu trên bằng cách pha đậm đặc theo tỷ lệ 1:1 (thuốc : nước) quét lên vị trí vết bệnh và tưới chung quanh vị trí này. Lặp lại nhiều lần (3-4 lần), mỗi lần cách nhau 7-10 ngày cho đến khi kiểm tra thấy vết bệnh hết thối. Sau xử lý thuốc, nên sử dụng vật liệu che đậy gốc (cỏ khô, mụn dừa…) nhằm giúp rễ tơ mới mọc ra nhanh và tránh bị ánh sáng mặt trời tác động trực tiếp. Kết hợp rải thuốc trừ tuyến trùng đất (Diazinon, Fipronil, Cytokinin) theo liều lượng khuyến cáo trên bao bì, xử lý 1-2lần/năm hoặc nhiều hơn nếu đất bị nhiễm tuyến trùng nặng.

    – Có thể tưới hỗ trợ các chế phẩm kích thích sinh trưởng bộ rễ nhằm gia tăng sự phát triển rễ mới ngay sau khi tưới thuốc hóa học khoảng 7-14 ngày. Tưới định kỳ từ 1-2 lần/tháng cho đến khi kiểm tra thấy cây ra rễ mới.

    – Rải phân hữu cơ đã được ủ hoai với liều lượng 10-20kg/cây trưởng thành kết hợp với một số vi sinh vật có lợi Trichoderma, Streptomyces và Pseudomonas.

    2. Giai đoạn chuẩn bị xử lý ra hoa

    – Xử lý ra hoa cho vú sữa khi cây đã trưởng thành, cho trái ổn định bằng phương pháp điều tiết nước và bón phân cân đối, hợp lý theo quy trình canh tác đã được khuyến cáo. Lưu ý không được bơm lùa và giữ nước trên mặt liếp quá lâu làm hư bộ rễ.

    – Phun ngừa bệnh gây nứt-khô cành 1-2lần/đợt chồi cho toàn bộ tán cây bằng các loại thuốc trừ nấm có hoạt chất: Thiophanate-methyl, Fenbuconazole, Myclobutanil ở giai đoạn cây ra đọt, cành non, cành chuẩn bị chuyển sang bánh tẻ.

    – Tiếp tục xử lý thuốc trừ bệnh thối rễ với các loại thuốc nêu trên.

    3. Giai đoạn cây mang trái

    – Tỉa bỏ bớt trái bị nhiễm sâu bệnh, tì vết, cành nhỏ mang quá nhiều trái. Lưu ý đối với những cây sau trẻ hóa thường mang nhiều trái do đó nên giữ một số lượng trái nhất định và chỉ để nhiều trái đối với cành trẻ hoá từ 36 tháng trở đi.

    – Tiếp tục cung cấp thêm phân vô cơ theo quy trình canh tác và bón tăng cường phân hữu cơ hữu cơ ủ hoai/thương mại từ 2-5kg/gốc.

    – Ở thời điểm bắt đầu thu hoạch trái thì nên duy trì chế độ tưới định kỳ và tưới vừa phải nhằm cung cấp đầy đủ nước cho cây trong giai đoạn mang nhiều trái.